Tùy theo loại nấm gây bệnh mà có 3 dạng lâm sàng: vi nấm (dermatophyte)đôi khi nấm mốc (mould) thứ phát nhiễm ở phần bên và phần xa dưới móng (Distal and lateral subungual onychomycosis, DLSO) gây loạn dưỡng móng. Nấm Trychophyton mentagrophytes gây trắng trên mặt móng (Supperficial white onychomycosis, SWO) Nấm men Candida xuất phát từ phần gốc dưới móng (Proximal subungual subungual onychomycosis, PSO) thường là thứ phát của viêm quanh móng mạn. Hậu quả cuối cùng của 3 dạng DLSO, SWO, PSO là tiêu hủy móng, gọi là loạn dưỡng toàn móng (Total dystrophic onychomycosis, TDO).
Thuốc thường dùng:
– Thuốc bôi: có nhiều biệt dược bào chế dưới dạng mỡ, kem, dung dịch bôi từ nhóm acid (salicylic,undecylenic), các kháng nấm phổ hẹp (nistatin, clotrimazol, myconazol, griseofulvin), kháng nấm phổ rộng (ketoconazol). Chúng đều rất kém hiệu quả, kể cả khi đã phối hợp với liệu pháp tháo móng. Lý do: các thuốc bôi đều không thấm qua móng để tác dụng lên nấm gây bệnh ở sâu bên trong. Chưa có chứng minh hiệu quả chắc chắn. FDA chưa cho dùng. Thực tế thuốc bôi chỉ dùng phụ trợ.
– Thuốc uống: phải dùng thuốc uống mới có hiệu quả. Các thuốc (ở dưới đây) đều có dược động học khá đặc biệt: sau khi uống phân bổ một lượng đáng kể vào da và móng, tích lũy, đạt nồng độ (tính theo mg/1g móng, da) bằng hay cao hơn nồng độ (tính theo mg/ml) trong máu (thay đổi tùy loại). Lấy griseopulvin làm ví dụ: sau khi hấp thu, sẽ phân bổ tập trung ở da tóc móng, gan, mô mỡ, cơ xương; đặc biệt tích lũy vào các tế bào tiền thân keratin, có ái lực cao với các mô nhiễm bệnh và cũng kết hợp chặt chẽ với lớp keratin mới của da, móng. Ngay sau khi uống có thể thấy sự có mặt của thuốc ở lớp sừng. Nếu uống dạng tinh thể siêu nhỏ (liều 500mg) thì nồng độ ở da, móng đạt 1mcg/1g sau 4 giờ và 3mcg/1g sau 8 giờ. Nếu cứ dùng mỗi 12 giờ một liều 500mg thì có thể đạt 6 – 12mcg/1g trong vòng 30 giờ và sẽ đạt 12 – 25mg/1g nếu dùng liên tục vài tuần, trong khi đó nồng độ ở máu chỉ có 1 – 2mg/1ml. Như vậy, khi uống, thuốc sẽ tập trung trên da và móng, tác dụng với nấm gây bệnh cư trú ở đó. Do vậy thuốc uống là thuốc chính. Các thuốc uống thường dùng:
Kháng nấm phổ rộng azol: gồm ketoconazol, fluocnazol, itraconazol Cytochrom P450 cần thiết cho quá trình khử methyl để chuyển 14 -alpha methyl sterol thành ergosterol của màng tế bào nấm. Nhóm azol ức chế cytochrom P450, làm giảm lượng ergozterol, dẫn tới làm thay đổi tính thấm và chức năng của màng tế bào nấm, từ đó mà có tính kháng nấm và diệt nấm. Liều dùng iltraconazol: liên tục 200mg/lần/ ngày x 6 – 12 tuần hoặc điều trị từng đợt 400mg/lần/ngày trong tuần đầu tháng, rồi nghỉ 3 tuần, sau đó tiếp tục lập lại chu kỳ này trong 6 – 12 tháng. Fluconazol: liều 150 – 400mg/tuần x 6 – 12 tháng.
Kháng nám phổ hẹp griseopfulvin: kháng nấm theo hai cách: griseofulvin phá vỡ cấu trúc thoi gián phân tế bào, làm ngừng pha giữa của sự phân bào, hay tạo ra DNA khiếm khuyết không có khả năng sao chép, từ đó làm cho nấm không sinh sản được Griseopulvin đọng vào các tế bào tiền thân của keratin tạo ra bất lợi cho sự xâm nhập của nấm do đó các mô ở móng bị nhiễm nấm sẽ được thay thế bằng các mô lành. Liều dùng: loại tinh thể: 0,5 – 1g/ngày x 6 – 12 tháng; loại tinh thể siêu nhỏ: liều bằng hai phần ba liều loại tinh thể.
Nhóm alyllamin: terbinafin: terbinafin ức chế enzym epoxydase squalen ngăn cản sự chuyển đổi squalen lanosterol thành ergosterol, làm giảm lượng ergosterol, dẫn tới thay đổi tính thấm, chức năng của màng tế bào nấm; từ đó mà có tính kháng nấm, diệt nấm. Liều dùng: 250mg/ngày x 6 – 12 tuần.
Tất cả chúng đều độc, khi điều trị lại phải dùng kéo dài, rất dễ bị tai biến.
Nhóm kháng nấm phổ rộng azol: ketoconazol gây độc cho gan; thường gặp ở người cao tuổi, nữ, nghiện rượu, suy chức năng gan do các nguyên nhân khác nhau; viêm gan thường biểu hiểu hiện rõ trong vòng vài tháng, cũng có thể ngay trong vài tuần dùng đầu; có khi hồi phục cũng có khi không hồi phục (bị hoại tử gan cấp, biến đổi mô ở gan, tử vong). Fluconazol làm tăng nhẹ tạm thời transaminase, bilirubin máu gấp 1,5 – 3 lần bình thường, hiếm gặp hơn, có khi gấp 8 lần bình thường; lúc đó buộc phải ngừng thuốc. Iltraconazol không làm rối loạn chức năng gan khi dùng ngắn ngày, ít độc với gan hơn 2 thuốc trên. Khi dùng nhóm azol cần định kỳ kiểm tra chức năng gan. Không được dùng nhóm azol cho người có bệnh, có nguy cơ hay có tiền sử bệnh gan.
Kháng nấm phổ hẹp griseofulvin: có tiềm năng gây độc nặng cho thận, gan, mất bạch cầu hạt. Cần định kỳ kiểm tra chức năng gan thận máu. Phải ngừng thuốc nếu thấy mất bạch cầu hạt. Gây phản ứng mẫn cảm với ánh sáng và làm nặng thêm bệnh lupus ban đỏ. Do có nguồn gốc từ penicillinum nên có thể gây dị ứng chéo với penicillin.
Nhóm alyllamin (terbinafin): gây viêm gan, giảm bạch cầu trung tính, giảm bạch cầu hạt (biểu hiện viêm họng, lở loét, có khi dẫn tới tử vong) gây hội chứng Stevenns, hội chứng Lyel. Cần định kỳ kiểm tra chức năng gan và máu khi dùng thuốc.
Với người có thai: fluconazol, terbinafin chưa có thông tin đầy đủ; ketoconazol, fluconazol, itraconazol. Griseofulvin gây quái thai trên súc vật nhưng chưa có bằng chứng trên người; griseopulvin gây sảy thai. Với người cho con bú: griseoful, terbinafin chưa có thông tin đầy đủ; ketoconazol, fluconazol,itraconazol có tiết vào sữa mẹ. Không dùng cho người có thai cho con bú, riêng loại chưa có thông tin đầy đủ khi cần thiết có thể dùng nếu cân nhắc thấy lợi ích thực sự cao hơn nguy cơ.
Nguồn từ Internet